Bước tới nội dung

Siêu đám Laniakea

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Laniakea Supercluster
Bản đồ Siêu đám Laniakea và lân cận
Dữ liệu quan sát (Kỷ nguyên J2000)
Chòm saoNam Tam GiácCủ Xích
(Điểm Hút Lớn)
Xích kinh10h 32m
Xích vĩ−46° 00′
Thành viên sáng nhấtNgân Hà (mag –5.0)
Số lượng thiên hà100.000–150.000
Bán trục lớn520 triệu ly (159 Mpc) h−1
0.6780 ± 0.077

(H0 from Planck 2013)
Dịch chuyển đỏ0.0708 (center)
Khoảng cách
(đồng chuyển động)
250 triệu ly (77 Mpc) h−1
0.6780 ± 0.077

(Great Attractor)
(H0 from Planck 2013)
Khối lượng ràng buộc1×1017[1] M
Tên gọi khác
Local Supercluster, Laniakea, Laniakea Supercluster, Laniakea Complex
Xem thêm: Nhóm thiên hà, Cụm thiên hà, Danh sách nhóm và quần tụ thiên hà
Bản đồ cho thấy tất cả các siêu đám trong vũ trụ, với siêu đám Laniakea được hiển thị với màu vàng.

Siêu đám Laniakea (còn được gọi là Siêu đám thiên hà Laniakea hoặc SCI đám thiên hà hay đôi khi chỉ Laniakea)[2] là một siêu đám thiên hà chứa Dải ngân hà và khoảng 100.000 thiên hà khác.[3] Nó được tìm thấy vào tháng 9 năm 2014 khi một nhóm các nhà thiên văn học bao gồm R. Brent Tully của Đại học Hawaii, Hélène Courtois của Đại học Lyon, Yehuda Hoffman của Đại học Do Thái JerusalemDaniel Pomarède của CEA (Đại học Paris-Saclay) đã nghĩ ra một cách mới để xác định các siêu đám theo vận tốc xuyên tâm của thiên hà.[4][5] Định nghĩa mới về siêu đám thiên hà địa phương bao gồm siêu đám thiên hà địa phương được xác định trước đó, Siêu đám Xử Nữ như một phần phụ.[6][7][8][9][10]

Các nghiên cứu cho thấy Laniakea không được liên kết hấp dẫn, nó sẽ phân tán thay vì tiếp tục duy trì với các khu vực xung quanh như là một vùng có mật độ vật chất dày đặc hơn so với các vùng khác.[11]

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Cái tên laniakea ([ˈlɐnijaːˈkɛjə]) có nghĩa là "thiên đường bao la" trong tiếng Hawaii từ lani 'thiên đường', và ākea 'rộng bao la'. Tên được đề xuất bởi Nawa'a Napoleon, một giáo sư về ngôn ngữ học tại Hawaii ở Đại học Cộng đồng Capiolani.[12] Tên này cũng nhằm để tôn vinh các nhà hàng hải Polynesia, người đã sử dụng kiến thức về thiên đàng để điều hướng trên Thái Bình Dương.[13]

Đặc điểm

[sửa | sửa mã nguồn]

Siêu đám thiên hà Laniakea bao gồm 100.000 thiên hà trải dài trên 160 mêgaparsec (520 triệu năm ánh sáng). Nó có khối lượng xấp xỉ 1017 lần khối lượng Mặt Trời, nghĩa là gấp trăm nghìn lần thiên hà chúng ta, gần bằng khối lượng của Siêu đám Horologium.[4] Nó bao gồm bốn siêu đám con, trước đây từng được gọi là các siêu đám riêng biệt:

Các cụm thiên hà khổng lồ của Laniakea là Xử Nữ, cụm Trường Xà, cụm Bán Nhân Mã, Abell 3565, Abell 3574, Abell 3521, cụm Thiên Lô, cụm Ba Giangcụm Củ Xích. Toàn bộ siêu sao bao gồm 300 đến 500 cụm thiên hà khác nhau và những nhóm thiên hà. Con số thực tế có thể lớn hơn nhiều vì một số trong số cụm hay nhóm thiên hà này đang đi qua vùng bị che khuất, khiến chúng không thể bị phát hiện.

Siêu đám có một số cấu trúc lớn của vũ trụ và ranh giới của chúng rất khó xác định, đặc biệt là từ bên trong. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng kính viễn vọng vô tuyến để lập bản đồ chuyển động của một tập hợp lớn các nhóm thiên hà. Trong một siêu sao nhất định, hầu hết chuyển động của thiên hà sẽ hướng vào bên trong, chính là hướng về trung tâm khối lượng. Trong trường hợp của Laniakea, điểm hấp dẫn này được gọi là Điểm Hút Lớn (The Great Attractor) và ảnh hưởng đến chuyển động của nhóm thiên hà, nơi Ngân Hà cư trú với tất cả các thiên hà khác trong siêu sao. Không giống như các cụm cấu tạo của nó, Laniakea không được liên kết hấp dẫn và được dự kiến có thể bị "xé nát" bởi năng lượng tối.[8]

Mặc dù sự tồn tại của siêu đám Laniakea được công nhận vào năm 2014,[4]

Phương pháp khám phá

[sửa | sửa mã nguồn]

Phương pháp mới được sử dụng để phân tích các chuyển động của thiên hà để phân biệt chuyển động đặc biệt với sự giãn nở vũ trụ là lọc Wiener, hoạt động cho thông tin vị trí được xác định rõ, cho phép phân tích ra khoảng 300×10^6 ly (92 Mpc) hiển thị với các mẫu luồng. Với giới hạn đó, Laniakea được cho là đang đi theo hướng của Siêu đám Shapley.[10]

Nhà thiên văn học người Nam Phi, Tony Fairall, đã tuyên bố vào năm 1988 rằng các dịch chuyển đỏ cho thấy Siêu đám Xử Nữ và Siêu đám Trường Xà-Bán Nhân Mã có thể được kết nối với nhau.[15]

Các siêu đám lân cận của Laniakea là Siêu đám Shapley (Shapley Supercluster), Siêu đám Vũ Tiên (Hercules Supercluster), Siêu đám Coma (Coma Supercluster) và Siêu đám Anh Tiên-Song Ngư (Perseus-Pisces Supercluster), chúng đều là một phần trong thành phần của Tổ hợp siêu đám thiên hà Song Ngư-Kình Ngư (Pisces-Cetus Supercluster Complex). Các cạnh của siêu đám và của Laniakea không được biết rõ vào thời điểm nào.[7]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “The Milky Way's 'City' Just Got a New Name”. Bloomberg.com. CityLab. 3 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2014.
  2. ^ Taylor, Charles (2014). Science Encyclopedia. Kingfisher.
  3. ^ “The road map to the Universe”. DailyMail UK. ngày 14 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2015.
  4. ^ a b c Tully, R. Brent; Courtois, Hélène; Hoffman, Yehuda; Pomarède, Daniel (tháng 9 năm 2014). “The Laniakea supercluster of galaxies”. Nature (bằng tiếng Anh). 513 (7516): 71–73. arXiv:1409.0880. Bibcode:2014Natur.513...71T. doi:10.1038/nature13674. ISSN 1476-4687. PMID 25186900. S2CID 205240232.
  5. ^ Tempel, Elmo (1 tháng 9 năm 2014). “Cosmology: Meet the Laniakea supercluster”. Nature. 513 (7516): 41–42. Bibcode:2014Natur.513...41T. doi:10.1038/513041a. PMID 25186896.
  6. ^ "Newly identified galactic supercluster is home to the Milky Way". National Radio Astronomy Observatory. ScienceDaily. ngày 3 tháng 9 năm 2014.
  7. ^ a b Irene Klotz (2014-09-03). "New map shows Milky Way lives in Laniakea galaxy complex". Reuters. Reuters.
  8. ^ a b Elizabeth Gibney (ngày 3 tháng 9 năm 2014). "Earth's new address: 'Solar System, Milky Way, Laniakea'". Nature. doi:10.1038/nature.2014.15819.
  9. ^ Quenqua, Douglas (ngày 3 tháng 9 năm 2014). "Astronomers Give Name to Network of Galaxies". New York Times. Truy cập 4 September 2014.
  10. ^ a b Camille M. Carlisle (ngày 3 tháng 9 năm 2014). "Laniakea: Our Home Supercluster". Sky and Telescope.
  11. ^ Chon, Gayoung; Böhringer, Hans; Zaroubi, Saleem (2015). “On the definition of superclusters”. Astronomy & Astrophysics. 575: L14. arXiv:1502.04584. Bibcode:2015A&A...575L..14C. doi:10.1051/0004-6361/201425591.
  12. ^ “Multimedia Gallery - | NSF - National Science Foundation”.
  13. ^ “Astronomers define boundaries of our home supercluster and name it Laniakea | EarthSky.org”. earthsky.org (bằng tiếng Anh). 3 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2020.
  14. ^ Mitra, Shyamal (1989). “A Study of the Southern Supercluster”. The World of Galaxies, Pp 426-427. Springer, New York, NY.: 426–427. doi:10.1007/978-1-4613-9356-6_65. ISBN 978-1-4613-9358-0. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2020.
  15. ^ Fairall, Anthony Patrick (1988). “A redshift map of the Triangulum Australe-Ara region – Further indication that Centaurus and Pavo are one and the same supercluster”. Monthly Notices of the Royal Astronomical Society. 230 (1): 69–77. Bibcode:1988MNRAS.230...69F. doi:10.1093/mnras/230.1.69.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Đại diện của video về những phát hiện Laniakea được đăng trên các bài báo thuộc chủ đề Khám phá.

Vẽ lại ranh giới vũ trụ trên bản đồ và xác định siêu đám ngoài dài ngân hà của chúng ta rồi đặt tên là Laniakea.